Soạn bài Ôn tập học kì 1 lớp 11 trang 155 | Kết nối tri thức Ngữ văn lớp 11


Soạn bài Ôn tập học kì 1 lớp 11 trang 155 hay nhất

I. Hệ thống hóa kiến thức đã học

Câu 1 (trang 155 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Nêu tên các loại, thể loại văn bản được học trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một và nhan đề văn bản đọc thuộc từng loại, thể loại ấy.

Trả lời:

– Tác phẩm văn học bao gồm: tự sự, trữ tình, kịch.

+ Các thể loại trữ tình:  ca dao, thơ cách luật, thơ tự do, thơ trào phúng…

+ Các thể loại tự sự: truyện, ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, bút kí, phóng sự…

+ Các thể loại kịch:  kịch dân gian, kịch cổ điển, kịch hiện đại, bi kịch, hài kịch.

Câu 2 (trang 155 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Lập bảng thống kê các khái niệm then chốt cần dùng để đọc hiểu những văn bản trong Ngữ văn 11, tập một và giải thích ngắn gọn về từng khái niệm.

Trả lời:

Bài

Khái niệm

Giải thích

1

Truyện ngắn hiện đại là thể loại tự sự cỡ nhỏ, ở đó, sự ngắn gọn được nhìn nhận là một đặc trưng nổi bật, phản ánh nét riêng của tư duy thể loại.

Truyện ngắn thường chỉ xoay quanh một, hai tình huống diễn ra trong khoảng thời gian, không gian hạn chế.

Câu chuyện là nội dung của tác phẩm tự sự bao gồm nhân vật, bối cảnh và sự kiện được sắp xếp theo trật tự thời gian.

Câu chuyện là truyện gốc, cốt chuyện.

Truyện kể bao gồm các sự kiện được tổ chức theo mạch kể của văn bản tự sự, gắn liền với vai trò của người kể chuyện, hệ thống điểm nhìn và lớp lời văn nghệ thuật.

Chú ý đến truyện kể chính là chú ý đến cách câu chuyện được kể như thế nào.

Điểm nhìn được hiểu là vị trí để quan sát, trần thuật, đánh giá.

Điểm nhìn mang tính tâm lí, tư tưởng, gắn liền với vai kể cả người kể chuyện hoặc hoàn cảnh, trải nghiệm của nhân vật.

Lời người kể chuyện gắn liền với ngôi kể, điểm nhìn, ý thức và giọng điệu người kể chuyện.

Lời người kể chuyện và lời nhân vật có khả năng kết nối, cộng hưởng, giao thoa với nhau tạo nên một số hiện tượng đặc biệt về lời văn: lời nửa trực tiếp, lời độc thoại nội tâm,…

Lời nhân vật là ngôn ngữ độc thoại hay đối thoại gắn với ý thức quan điểm, giọng điệu của chính nhân vật.

2

Cấu tứ là một khâu then chốt, mang tính chất khởi đầu của hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung và sáng tạo thơ nói riêng.

Cấu tứ gắn liền với việc xác định, hình dung hướng phát triển của hình tượng thơ,…

Yếu tố tượng trưng chỉ một loại hình ảnh, hình tượng mang tính đặc thù.

Yếu tố tượng trưng đóng vai trò quan trọng tạo nên tính chất chất tượng trưng của bài thơ.

3

Cấu trúc của văn bản nghị luận: bao gồm nhiều thành tố: luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng,…

Luận đề giúp định hướng các luận điểm, các luận điểm làm rõ từng khía cạnh của vấn đề.

Các yếu tố bổ trợ trong văn bản nghị luận: thuyết minh, miêu tả, tự sự, biểu cảm.

Tăng sức thuyết phục cho văn bản nghị luận.

4

Truyện thơ thuộc loại hình tự sự, có cốt truyện, câu chuyện, nhân vật, lời kể,… nhưng lại được thể hiện dưới hình thức thơ.

Truyện thơ có dung lượng lớn, bao quát nhiều sự kiện, con người, chi tiết cụ thể của đời sống.

Truyện thơ dân gian do tầng lớp bình dân hoặc các trí thức sống gần gũi với tầng lớp bình dân sáng tác, lưu hành bằng con đường truyền miệng nhưng cũng có khi thông qua các văn bản viết.

Do điều kiện văn hóa, xã hội đặc thù, truyện thơ dân gian đặc biệt phát triển trong sinh hoạt văn hóa, văn học của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

5

Bi kịch là một thể loại thuộc về kịch, thường diễn tả những xung đột hệ trọng, đạt tới mức căng thẳng tột độ giữa những mong muốn hành động cao đẹp với tình thế bi đát không thể đảo ngược.

Bi kịch thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật. Trong đó, việc cái đẹp, cái hùng bị thất bại đã đưa đến nỗi đau khổ cùng cực.

Nhân vật chính trong bi kịch mang khát vọng cao đẹp, có tính cách mạnh mẽ, có khả năng lựa chọn hành động tự do xuất phát từ chính kiến, đức tính của mình, song lựa chọn này xung đột  với hoàn cảnh thực tế hoặc gặp phải những trở ngại ngay trong bản tính cố hữu.

Nhân vật chính trong bi kịch thường phải trải qua những trạng thái giằng xé, bế tắc, rơi vào những tình huống hết sức nặng nề và có kết thúc bi thảm.

Xung đột trong bi kịch là những mâu thuẫn gay gắt giữa lựa chọn hành động tự do của nhân vật như một nhân cách mạnh mẽ với cái tất yếu.

Thể hiện qua những thế lục như định mệnh, bản tính tự nhiên, định kiến thời đại, thực tại xã hội,…

Hiệu ứng thanh lọc của bi kịch là khi theo dõi hành động bi kịch thì người tiếp nhận bi kịch sau đó sẽ căm ghét cái đê tiện, giả dối, ngưỡng mộ cái cao đẹp,…

Thông qua hiệu ứng thanh lọc của bi kịch, nhân vật mang đến cho người xem những bài học quý báu về cuộc sống.

Câu 3 (trang 155 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Tổng hợp những nội dung thực hành Tiếng Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một theo các gợi ý sau:

– Nội dung thực hành

– Khái niệm hay quy tắc cần nắm vững

– Ý nghĩa của hoạt động thực hành

Trả lời:

Nội dung thực hành

Khái niệm hay quy tắc cần nắm vững

Ý nghĩa của hoạt động thực hành

Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết

– Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ âm thanh, được tiếp nhận bằng thính giác.

– Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết, được dùng trong sách báo, văn bản hành chính, thư từ,…

Nhận biết, phân tích được đặc điểm và ý nghĩa của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trong các văn bản văn học.

Một số hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường

Nắm vững những quy ước ngôn ngữ có tính chuẩn mực của Tiếng Việt, đồng thời biết thực hiện việc đối chiều, so sánh các phương án sử dụng ngôn ngữ khác nhau.

– Tạo ra những kết hợp trái logic nhằm “lạ hóa” văn bản.

– Sử dụng hình thức đảo ngữ để nhấn mạnh đặc điểm đối tượng.

– Cung cấp nét nghĩa mới nhằm đưa đến phát hiện bất ngờ.

– Bổ sung chức năng mới cho câu.

Lỗi thành phần câu và cách sửa

Câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ, sắp xếp sai vị trí thành phần câu, thiếu vế câu.

Nhận biết được lỗi về thành phần câu và đưa ra được cách sửa.

Câu 4 (trang 155 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Liệt kê những kiểu bài viết đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một theo bảng gợi ý sau:

STT

Kiểu bài viết

Đề tài được gợi ý

Đề tài đã viết

 

 

 

 

Trả lời:

STT

Kiểu bài viết

Đề tài được gợi ý

Đề tài đã viết

1

Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện

– Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống và nhân vật.

– Phân tích đặc điểm, vai trò và chức năng của người kể chuyện.

– Phân tích cách xây dựng truyện kể

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn “Vợ nhặt” – Kim Lân

2

Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ

Viết về những bài thơ đã được tìm hiểu trong chính bài học hoặc danh mục tham khảo của thầy cô

Viết bài văn nghị luận về văn bản “Tràng giang” – Huy Cận.

3

Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội

– Vì sao học sinh cần tham gia các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở địa phương?

– Cách tổ chức cuộc sống cá nhân có vai trò như thế nào trong việc hoàn thiện nhân cách?

– Việc tiếp thu ý kiến của người khác có mâu thuẫn với việc khẳng định tính tự chủ của bản thân?

– Ý nghĩa của phát ngôn có trách nhiệm trong giao tiếp xã hội là gì?

Phải chăng sống ảo có nguy cơ đánh mất giá trị thực? 

4

Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội

Tự bảo vệ mình trước các tệ nạn; Thực hành lối sống xanh; Đấu tranh cho bình đẳng giới; Tôn trọng sự khác biệt; Sự cần thiết của việc học ngoại ngữ; Trách nhiệm với lớp người yếu thế trong xã hội; Ý nghĩa của các diễn đàn, câu lạc bộ khởi nghiệp,…

Tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ.

5

Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên, xã hội

Sự kiện văn hóa – lịch sử, một vấn đề khoa học – nghệ thuật, một hiện tượng tâm lí, cũng có thể là một vấn đề tự nhiên như môi trường, khí hậu, tài nguyên,…

Lịch sử, văn hóa, xã hội và giáo dục người Chăm ở Việt Nam

Câu 5 (trang 155 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Nhớ lại các nội dung của hoạt động nói và nghe đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một tên các phương diện sau:

– Tên nội dung hoạt động nói và nghe.

– Yêu cầu của hoạt động.

– Thách thức và ý nghĩa của hoạt động.

Trả lời:

Tên nội dung hoạt động nói và nghe

Yêu cầu của hoạt động

Thách thức và ý nghĩa của hoạt động

Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong một tác phẩm truyện

– Giới thiệu những thông tin cơ bản về tác phẩm truyện được chọn để thuyết trình.

– Nêu được các khía cạnh trong nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm truyện.

– Trình bày được những phát hiện cá nhân về giá trị của tác phẩm, thu hút sự quan tâm của người nghe về tác phẩm được chọn để thuyết trình.

– Thể hiện được sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng về một tác phẩm truyện.

– Giới thiệu các thông tin cần thiết về tác phẩm truyện.

– Chỉ ra và đánh giá được các phương diện làm nên tính nghệ thuật của tác phẩm truyện.

 

Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật

– Cung cấp được thông tin chung về tác phẩm nghệ thuật một cách sáng rõ, chính xác (tên tác phẩm, tác giả, thể loại, thời điểm sáng tác, đánh giá của công chúng với các nhà chuyên môn,…).

– Nêu được lí do chọn giới thiệu tác phẩm.

– Trình bày được cảm nhận, quan điểm cá nhân của người nói về giá trị tác phẩm với các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục; chủ động đặt câu hỏi để người nghe cùng tương tác và đối thoại.

– Thể hiện sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng đối với một tác phẩm nghệ thuật.

– Cung cấp thông tin toàn diện về tác phẩm.

– Trình bày được ý nghĩa của việc giới thiệu tác phẩm.

Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội

– Nêu được vấn đề xã hội cần đánh giá, bình luận.

– Làm rõ được bản chất và vai trò của vấn đề trong đời sống xã hội.

– Trình bày được ý kiến đánh giá, bình luận của cá nhân về vấn đề; biết phân tích, đánh giá ý kiến của người khác.

– Rút ra được ý nghĩa của việc đánh giá, bình luận về vấn đề.

– Thể hiện sự tôn trọng ý kiến, quan điểm của người khác đối với vấn đề bàn luận.

– Trình bày đúng bản chất của vấn đề.

– Giúp người nghe hiểu rõ bản chất của vấn đề.

Thảo luận về một vấn đề trong đời sống

– Chọn được vấn đề thảo luận có ý nghĩa, gần gũi với trách nhiệm của tuổi trẻ học đường.

– Nêu được các khía cạnh cụ thể của vấn đề và những cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề.

– Thể hiện được quan điểm rõ ràng về vấn đề với lí lẽ thuyết phục và bằng chứng phù hợp, sinh động trong từng ý kiến phát biểu.

– Thể hiện được thái độ tôn trọng lẫn nhau trong thảo luận.

– Thể hiện được văn hóa tranh luận khi nêu ý kiến.

– Nắm bắt được nội dung ý kiến, làm sáng tỏ vấn đề thảo luận,…

Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu

– Giới thiệu được vấn đề nghiên cứu, lí do chọn vấn đề.

– Trình bày khái quát những kết quả nghiên cứu chính.

– Sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để nội dung trình bày được rõ ràng và hấp dẫn.

– Trình bày rõ ràng được các vấn đề nghiên cứu, lí do chọn đề tài, những kết luận và phát hiện chính.

 

 

II. Luyện tập và vận dụng

1. Đọc

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Huyền diệu

(Xuân Diệu)

Les parfums, les couleurs et les sons se répondent.

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn;
Như hương thấm tận qua xương tuỷ,
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.

Hãy tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của Du Dương
Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy
Hiển hiện hoa và phảng phất hương…

Hãy nghe lẫn lộn ghé bên tai
Giọng suối, lời chim, tiếng khóc người;
Hãy uống thơ tan trong khúc nhạc
Ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi…

Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im
Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim
Còn cứ run hoài, như chiếc lá
Sau khi trận gió đã im lìm.

(Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam 1932 – 1941,

NXB Văn học, Hà Nội, 2006, tr. 134)

Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bạn hiểu như thế nào về nhan đề của bài thơ? Nhan đề ấy có ý nghĩa định hướng việc đọc tác phẩm như thế nào?

Trả lời:

– Ý nghĩa nhan đề Huyền diệu: một nhan đề thật độc đáo và mới mẻ, gợi nên sự bí ẩn và kì diệu, khiến cho người đọc cảm thấy thú vị và tò mò về tác phẩm.

Câu 2 (trang 157 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Việc chọn câu thơ của Bô-đơ-le làm đề từ có ý nghĩa gì?

Trả lời:

– Ý nghĩa lời đề từ: Dịch ra Tiếng Việt có nghĩa là “Hương thơm, màu sắc, âm thanh tương ứng với nhau”.

=> Tác giả muốn nói đến sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh, đó chính là sự tương giao và là sự tương ứng giữa các giác quan với nhau, từ đó gợi ra một vẻ đẹp mới, một hình ảnh lạ cho thơ.

Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Nêu ấn tượng bao trùm về bài thơ và lí giải nguyên nhân đưa đến ấn tượng ấy.

Trả lời:

– Tác giả đã cảm nhận rất rõ nét về những cảnh sắc xung quanh mình, tác giả viết về sự đầm ấm và những âm điệu từ cảm xúc: từ “khúc nhạc thơm” đến người say rượu đêm tân hôn và rồi du dương một khúc nhạc hường, “nghe lẫn lộn ghé bên tai”, “lời chim”, “giọng suối”, “tiếng khóc người” … Tác giả tha thiết, rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng.

Câu 4 (trang 157 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Những tri thức Ngữ Văn nào đã học cần được vận dụng để việc đọc và thưởng thức bài thơ đạt hiệu quả?

Trả lời:

Những tri thức Ngữ Văn cần vận dụng: Thơ, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ. 

Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chỉ ra những kết hợp từ ngữ mà bạn cho là có tính chất khác thường trong bài thơ.

Trả lời:

Những kết hợp từ ngữ có tính chất khác thường:

– Lắng nghe em (đảo ngữ)

– Khúc nhạc thơm (từ thơm: chuyển từ khứu giác sang thính giác)

– Uống thơ tan trong khúc nhạc

-…

Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nói về vẻ đẹp của bài thơ theo cảm nhận của bạn.

Trả lời:

Đoạn văn tham khảo:

          Bài thơ được tác giả cảm nhận rất rõ nét những sắc cảnh xung quanh mình, từ “khúc nhạc thơm” làm say đắm lòng người “thấm tận qua xương tủy”, cái âm điệu thần tiên ấy làm cho tác giả “thấm tận hồn”. Hay như “khúc nhạc hường” đã dẫn lối chúng ta bước vào “thế giới của Du Dương”, khi đắm chìm trong đó “hoa” và “hương” sẽ phảng phất ngay bên. Từ “giọng suối” tới “lời chim” và “tiếng khóc người” hãy cứ để bản thân “uống thơ” và “tan trong khúc nhạc” sẽ thấy “ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi”. Và kể cả là khi khúc nhạc kia đã “ngừng im” thì hãy cứ cầm hơi mà lắng nghe trái tim, nó vẫn cứ “run hoài” như những “chiêc lá” cho dù “trận gió”, bão táp đã qua đi từ hồi nào. Hồn thơ Xuân Diệu, một cái hồn luôn khát khao giao cảm với đời, một hồn thơ luôn luôn rộng mở, chẳng để lòng mình khép lại bao giờ, một hồn thơ ngày ngày vẫn tha thiết, bồi hồi, rạo rực, băn khoăn, và tôi chính tôi đã trót yêu cái hồn ấy tự bao giờ. Và thi nhân Hoài Thanh, ông đã từng nhận xét về Xuân Diệu thế này: “Xuân Diệu tha thiết, rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng với niềm khát khao được giao cảm với đời”. Quả thật không thể phủ nhận khi cho rằng Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, ông mang một hồn thơ tràn ngập tính nhân văn, giọng thơ linh hoạt, ngôn ngữ sáng tạo, độc đáo kết hợp với cách diễn đạt hấp dẫn, lôi cuốn được nhiều độc giả. Bài thơ chứa đựng cả bầu trời tâm tư cũng như cảm xúc của nhà thơ, qua đó đã thể hiện được nỗi niềm khát khao, mong ước hòa nhập với cuộc đời của tác giả Xuân Diệu. Tác phẩm là một thành công lớn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa tên tuổi của nhà thơ vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam.

2. Viết

Chọn một trong các đề sau:

Đề 1. Để tạo nên thành công của một tác phẩm truyện, việc tác giả chọn được điểm nhìn độc đáo về đối tượng miêu tả, thể hiện giữ vai trò rất quan trọng. Hãy chọn phân tích một truyện mà bạn cho là có điểm nhìn độc đáo.

Đề 2. Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo.

Đề 3. Trình bày ý kiến của bạn về một vấn đề xã hội đang được nhiều người quan tâm và khiến bạn thực sự thấy trăn trở.

Đề 4. Lập đề cương cho báo cáo nghiên cứu về một vấn đề bạn muốn tìm hiểu và có điều kiện thu thập tài liệu.

Bài viết tham khảo

Đề 1:

            Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học hiện thực trước cách mạng. Các tác phẩm của ông sáng tác trên hai đề tài lớn là người trí thức và người nông dân, nhưng thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người nông dân. Viết về người nông dân, nhà văn có khuynh hướng khám phá, phát hiện những vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy.

            Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận chung của biết bao người nông dân trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy gà trống nuôi con. Đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí bỏ nhà ra đi. Lão ở vậy một mình với cậu Vàng – kỉ vật người con trai để lại. Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi đát hơn, lão bị ốm, lão tiêu tốn nhiều tiền dành dụm cho con, bởi vậy lão đành bán cậu Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão vô cùng đau đớn, ân hận. Nỗi ân hận đó được thể hiện qua đoạn văn miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn sống trong sự day dứt, dằn vặt bản thân.

            Nhưng ẩn đằng đó chính là những phẩm chất cao đẹp của người nông dân lương thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó được thể hiện ngay cả với một con vật: lão gọi chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ, ông chăm sóc cậu Vàng chu đáo: cho ăn cơm trong bát như một nhà giàu, không chỉ vậy ông còn trò chuyện, mắng yêu cậu vàng, cậu Vàng làm lão bớt cô đơn, vơi đi nỗi nhớ con. Tình cảm sâu nặng của ông với cậu Vàng có nguồn gốc sâu xa từ tình yêu thương con của lão Hạc, con chó là kỉ vật thiêng liêng mà người con để lại cho ông trước khi đi đến đồn điền cao su.

            Tình phụ tử ở lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc, thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không cưới được vợ cho con, lão vô cùng đau đớn, bởi vậy bao nhiêu tiền của làm được lão đều dành dụm cho con, lão chịu kham khổ, để người đời chửi mắng chứ nhất định không chịu tiêu lạm vào tiền của con. Sau khi bị bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai, hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy, nghĩa là vớ được thứ gì lão ăn thứ ấy,… Và cuối cùng lão lo lắng sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao.

            Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ lòng tự trọng. Lão không nhận bất cứ sự giúp đỡ của ai, ngay cả khi ông giáo đề nghị giúp, lão từ chối một cách hách dịch, bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì gia đình mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện trong cách thức tìm đến cái chết của ông. Trước khi chết ông để lại tiền nhờ bà con lo ma chay, không muốn phiền hà đến hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, cái chết đau đớn, dữ dội như một lời tạ tội với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất diệt của nhân cách trong ông.

            Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc. Ông giáo có sự đồng cảm sâu sắc với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi lão bán chó, chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa, lạc quan. Ông còn là người am hiểu tường tận nhất vẻ đẹp nhân cách của lão hạc: “Không cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy chính là con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại phải chết vật vã, đau đớn và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.

            Nghệ thuật kể chuyện xuất sắc: câu chuyện được kể bởi nhân vật tôi (ông giáo) người luôn bên cạnh lão Hạc, bởi vậy khiến câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi, ngoài ra khiến mạch kể trở nên tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả, kể với bình luận một cách tự nhiên, sinh động. Giọng văn đa dạng, thay đổi linh hoạt. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí, những bước ngoặt của truyện giúp bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn của văn bản: nhân vật được khắc họa qua diện mạo, ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, bình luận của các nhân vật khác, bởi vậy chân dung nhân vật hiện lên chân thực, sinh động hơn.

            Với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, ngôn ngữ giản dị, lôi cuốn Nam Cao đã cho người đọc thấy chân dung số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng, họ bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Nhưng đằng sau đó còn là chân dung tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương và nhân cách cao đẹp.

Đề 2:

            Thanh Hải một trong những cây bút lớn, có vai trò quan trọng gây dựng văn hóa cách mạng miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường mang phong cách nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình với tình yêu quê hương tha thiết.

            Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ là kết tinh nghệ thuật trong đời thơ của ông. Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với đất nước, với cuộc đời và nguyện ước chân thành của tác giả muốn được cống hiến cho đời, góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn của dân tộc.

            Ngay từ nhan đề tác phẩm đã thể hiện tài năng sáng tạo độc đáo của Thanh Hải đồng thời cũng bộc lộ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Danh từ mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian vô hình, không đong đếm, đo lường được nhưng dưới con mắt của thi nhân với trường liên tưởng độc đáo kết hợp với từ nho nhỏ đã khiến cho một khái niệm vốn trừu tượng trở nên hữu hình.

            Đồng thời hình ảnh ẩn dụ này còn tượng trưng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Qua đó tác giả bộc lộ quan điểm, sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng. Ngoài ra, nhan đề còn thể hiện ước muốn chân thành, tha thiết của tác giả: muốn làm một mùa xuân nho nhỏ, nghĩa là muốn sống một cuộc đời tươi đẹp, có ý nghĩa và giúp ích cho đời, cho đất nước.

            Cách đặt nhan đề đã làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Khổ thơ đầu mở ra khung cảnh mùa xuân vô cùng đẹp đẽ, đặc trưng nhất của không gian xứ Huế mơ mộng:

            “Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”

            Không gian mùa xuân cao rộng, bao la của dòng sông – mặt đất – bầu trời gợi ra trước mắt người đọc, không gian ấy cho thấy sự thanh bình, yên ả. Cùng với đó là sự phối hợp hài hòa của sắc màu thiên nhiên: màu xanh mênh mông của dòng sông làm nền cho màu hoa tím biếc thơ mộng – một sắc màu tươi sáng, dịu dàng rất đặc trưng của xứ Huế.

            Thanh Hải cũng thật tinh tế và tài tình khi đảo động từ “mọc” lên đầu câu, việc đảo trật tự như vậy càng nhấn mạnh vào sự xuất hiện của những bông hoa trên nền xanh biếc của dòng sông và bầu trời, khiến bông hoa trở nên đẹp đẽ hơn. Hòa trong không gian ấy là tiếng chim chiền chiện náo nức, vui tươi hót vang trời. Cả không gian ngập tràn sức sống.

            Đứng trước vẻ đẹp mùa xuân tác giả không thể kìm nén cảm xúc của bản thân mà cất lên tiếng gọi đầy tha thiết: “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”. Chỉ một chữ “ơi” thôi đã cho thấy niềm xúc động, vui sướng mãnh liệt của nhà thơ trước thiên nhiên vạn vật, bởi vậy, ngay lúc đó đã diễn ra một cuộc trò chuyện thật gần gũi và thân mật giữa con người và thiên nhiên.

            Cảm xúc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở đó, sự say sưa, yêu mến còn được thể hiện trong động tác đầy trân trọng, nâng niu: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Hình ảnh “giọt” là hình ảnh đa nghĩa, ta có thể hiểu đó là giọt mưa xuân, cũng có thể hiểu là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Câu thơ mang đến những hình ảnh mới lạ, đầy tính tạo hình. Có thể thấy rằng chỉ bằng vài nét phác họa rất đơn sơ nhưng Thanh Hải đã vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy mơ mộng, tươi đẹp và tràn đầy nhựa sống.

            Từ mùa xuân của thiên nhiên tác giả dâng trào của xúc trước của xuân của đất nước. Hai câu thơ đầu tạo ra những hình ảnh sóng đôi đặc sắc: “người cầm súng” “người ra đồng” tượng trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng đất nước. Cùng với đó là hình ảnh “lộc”, mỗi chữ “lộc” lại mang những ý nghĩa khác nhau. “Lộc giắt đầy trên lưng” trước hết mang ý nghĩa tả thực là chồi non, ngoài ra còn biểu tượng cho sức sống mùa xuân, cho những thành quả tốt đẹp.

            Cũng bởi vậy, khi những người chiến sĩ khi ra trận khoác trên mình chiếc lá ngụy trang như mang sức sống của toàn dân tộc trên vai với một niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai chiến thắng của toàn dân tộc. Hình ảnh “lộc” phía sau lại tượng trưng cho sự ấm no, hạnh phúc, được mùa dưới bàn tay của những người nông dân. Tất cả những yếu tố đó đã cho thấy khí thế, nghị lực của con người trên mặt trận bảo vệ tổ quốc và xây dựng của cuộc sống mới.

            Hai câu thơ cuối diễn tả cái náo nức, xôn xao của con người. Ấy là không khí lên đường nhộn nhịp, khẩn trương, liên tục không ngừng cùng với đó là tâm trạng háo hức, hăng say. Cả khổ thơ dạt dào niềm vui, như lời cổ vũ, động viên con người lên đường, hòa vào nhịp chung của dân tộc.

            Sang đến khổ thơ thứ ba, ta không còn thấy niềm vui trước mùa xuân dân tộc mà thay vào đó là những cảm nhận, suy tư của tác giả về lịch sử đất nước mình. “Đất nước bốn nghìn năm / Vất vả và gian lao” cho thấy những thử thách, khó khăn mà dân tộc ta phải trải qua trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.

            Thế nhưng trước những khó khăn chồng chất ấy ta vẫn “đi lên” một cách bản lĩnh, kiên cường. “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước” là hình ảnh so sánh đẹp đẽ đem đến cho người đọc những ý nghĩa khác nhau. Câu thơ là lời khẳng định về sự trường tồn mãi mãi của dân tộc ta trước mọi khó khăn, thử thách. Ở câu thơ tiếp, ba chữ “cứ đi lên” như một lời khẳng định chắc nịch về tương lai tươi sáng của toàn dân tộc. Khổ thơ bộc lộ niềm tự hào, tin tưởng vào sự bền bỉ của đất nước và khí thế đi lên của dân tộc.

            Những khổ thơ cuối cùng của bài là nguyện ước chân thành, tha thiết của nhà thơ cho cuộc đời. Tác phẩm ra đời trước lúc tác giả mất không lâu, khiến ta càng thêm trân trọng những nguyện ước giản dị mà đẹp đẽ của ông. Tác giả ước làm con chim để đem niềm vui cho cuộc đời, làm cành hoa đem hương sắc cho cuộc sống.

            Đáng quý hơn, ông nguyện làm một nốt trầm trong bản hòa ca. Nốt trầm xao xuyến ấy làm xúc động, gây ám ảnh trong lòng người. Trong khổ thơ có sự chuyển đổi từ “tôi” sang “ta” – đại từ vừa diễn tả số ít, vừa diễn tả số nhiều giúp tác giả vừa thể hiện cái riêng nhưng đồng thời cũng thể hiện cái chung. Qua sự biến đổi đại từ ấy cho thấy đây không chỉ là khát vọng riêng của tác giả mà còn là nguyện ước chung của tất cả mọi người.

            Ước nguyện cống hiến tha thiết, chân thành càng được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh: “Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời” cho thấy thái độ sống, cống hiến lặng lẽ, khiêm nhường nhưng lại vô cùng mãnh liệt, bền bỉ. Đây là cách sống cao đẹp, chân thành mà vô cùng dung dị. Hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi, tóc bạc” nói lên sự thống nhất trong quá trình cống hiến của nhà thơ: dù là khi còn trẻ, tràn đầy nhựa sống hay khi tóc đã bạc thì trách nhiệm ấy vẫn không hề thay đổi.

            Khổ thơ cuối cùng bộc lộ niềm tự hào, yêu mến đất nước của tác giả qua làn điệu dân ca xứ Huế. Bài thơ kết lại bằng làn điệu dân ca xứ Huế thiết tha cho thấy tấm lòng của tác giả trước quê hương, đất nước. Để tạo nên thành công của tác phẩm, Thanh Hải đã vận dụng tài tình thể thơ năm chữ, giàu nhạc điệu.

            Kết hợp với cách gieo vần linh hoạt, gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo nên sự liền mạch cảm xúc cho tác phẩm. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tự nhiên, giản dị, trong sáng mà cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Cảm xúc, giọng điệu nhà thơ chân thành, tha thiết.

            Bài thơ đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân đất nước tươi sáng, tràn đầy nhựa sống bằng giọng văn tha thiết, đầy tự hào. Nhưng đằng sau những câu thơ ấy còn cho thấy lẽ sống đẹp đẽ, cao cả của nhà thơ: nguyện cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, quê hương. Tấm lòng, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng.

Đề 3:

            Hằng ngày, cuộc sống vẫn tiếp diễn và trái đất vẫn quay như quy luật của nó. Và trong nhịp thở hối hả của cuộc sống, có khi nào, mỗi chúng ta nghoảnh lại nhìn hay sống chậm lại để nghĩ về những điều đang diễn ra xung quanh. Vấn đề bạo lực học đường cũng là một hiện tượng kinh khủng và cần báo động.

            Bạo lực học đường nguyên nhân từ đâu, diễn ra như thế nào. Có lẽ đây cũng là một câu hỏi không hề khó mà chúng ta có thể nhìn thấy ngay trước mắt. Bạo lực học đường diễn ra khi có mẫu thuẫn giữa giáo viên với học sinh hay là do học sinh với nhau. Nhưng hầu hết các vụ bạo lực học đường đều do học sinh, xô xát nhau. Là những học sinh nên em hiểu rõ hơn ai hết về nguyên nhân của bạo lực học đường. Từ những xích mích nhỏ cũng có thể gây ra những trận đánh nhau, hay cũng do ghen ghét nhau, đố kị nhau…

            Về mặt chủ quan, ta dễ dàng nhận thấy kỉ cương trong nhà trường của chúng ta quá lỏng lẻo, chúng ta quá tôn trọng học sinh, thậm chí nhiều trường, nhiều nơi không cho đuổi học học sinh, dù học sinh đó có vi phạm kỉ luật đến mức độ nào đi nữa. Điều đó khiến cho học sinh chẳng còn coi kỉ luật của nhà trường ra gì cả, nên tha hồ đánh nhau, trấn lột lẫn nhau mà cũng không sợ bị đuổi học. Một nguyên nhân chủ quan nữa dẫn đến nạn bạo lực học đường là gia đình thiếu quan tâm đến con em mình.

            Cha mẹ chỉ lo làm ăn, cung cấp tiền bạc cho con cái tiêu xài, ngoài ra chẳng biết con cái mình học hành như thế nào? Quan hệ với bạn bè tốt xấu ra sao, quan hệ với thầy cô ở trường như thế nào? Chúng có những suy nghĩ lệch lạc như thế nào về cuộc sống, về xã hội.

            Tác hại của bạo lực học đường thì không ai có thể phủ nhận được, nó gây ra những tác hại rất khôn lường. Bạo lực học đường không chỉ mang lại nỗi đau về thể xác mà còn để lại những rạn nứt về tâm hồn và gây cả những tiếc nuối xót xa đối với gia đình, nhà trường, xã hội.

            Một vụ bạo lực học đường có thể để lại những vết sẹo, những vết thương trên cơ thể cũng có khi phải trả giá bằng cả tính mạng con người, hàng loạt rắc rối kèm theo. Chắc hẳn các bạn cũng biết đến những clip nữ sinh đánh nhau được post lên mạng. Thật là đáng buồn. Nhưng bạo lực học đường không chỉ gây hậu quả cho bản thân mà còn trở thành vấn đề nhức nhối cho nhà trường, cho ngành giáo dục và cho toàn xã hội.

            Vậy làm thế nào để ngăn chặn bạo lực học đường? Về phía nhà trường, giáo dục chúng ta phải lập lại kỷ cương trong nhà trường, dĩ nhiên chúng ta phải đặt nặng vấn đề giáo dục nhưng cũng phải mạnh tay hơn đối với những học sinh quá kém về đạo đức, cần phải mời những em học sinh đó ra khỏi nhà trường, nếu không chúng ta sẽ rơi vào chỗ ảo tưởng hóa về vấn đề giáo dục.

            Bên cạnh đó, gia đình cần quan tâm sâu sắc tới con em mình và có mối quan hệ mật thiết với nhà trường, để biết con em mình hàng ngày học hành và sinh hoạt như thế nào?

            Hơn nữa, nhà nước cần hạn chế những phim ảnh bạo lực, những quán bar, vũ trường, quán nhậu… và mở ra nhiều sân chơi bổ ích, lành mạnh cho tầng lớp thanh thiếu niên như xây dựng, mở ra nhiều sân bóng đá, bóng chuyền, cầu lông… những câu lạc bộ của từng bộ môn trong trường học để các bạn học sinh vừa học vừa chơi, tạo nên sự thoải mái và tình bạn bè gần gũi, thân thiết thì mới mong hạn chế bớt nạn bạo lực học đường. Và đặc biệt mỗi cá nhân phải ý thức được bản thân mình trước tiên, phải biết lên tiếng trước những hành động xấu.

            Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, thì càng phát triển nhưng có những vấn đề đáng sợ gây ra những hậu quả thương tiếc. Là những học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường hãy xây dựng tình đoàn kết, yêu thương lẫn nhau đề phòng xảy ra bạo lực học đường.

Đề 4:

            Kiến trúc kinh thành, cố đô phong kiến ở Việt Nam luôn mang theo cái gì đó rất chung và rất riêng với văn hóa kiến trúc của Trung Hoa và nó luôn thể hiện nét đẹp truyền thống, văn hóa lịch sử lâu đời của người Việt. Bên cạnh quần thể kiến trúc Cố đô Huế từ xưa, người Việt vẫn luôn tự hào với kiến trúc thành Thăng Long – tòa thành đã trải qua biết bao năm tháng của lịch sử. 

            Như chúng ta đã biết, kinh thành Thăng Long luôn được gắn với một sự kiện lịch sử nổi tiếng đó là vào năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư đến Đại La và cho xây dựng kinh thành Thăng Long. Cùng với đó là hàng loạt các cung điện, lăng tẩm được xây dựng, nổi bật là công trình Điện Kính Thiên cao tới 2 tầng rộng hơn 2300 mét vuông. Thời Hậu Lê, thành Thăng Long vẫn được coi là kinh đô, trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. 

            Về vị trí, kinh thành Thăng Long tọa lạc ở phía Bắc Việt Nam và được giảm dần về diện tích qua các triều đại. Ở thời Hậu Lê, hầu như không xây dựng thêm các chùa tháp mà chủ yếu là trùng tu. Thay vào đó, hàng loạt phủ đệ mới của giới quý tộc, quan lại trung ương được xây dựng, tạo ra hình ảnh một kinh thành Thăng Long đầy quyền uy, thâm nghiêm. 

            Về kiến trúc, trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng, nhưng đến nay vẫn còn thấy được cả di tích trên mặt đất, dưới lòng đất, di tích lịch sử cách mạng, di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ thuật,… tạo thành hệ thống các di tích được đánh giá là quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của nước ta. Hiện tại, trong khu vực trung tâm Thành cổ Thăng Long – Hà Nội còn lại 5 điểm di tích nổi trên mặt đất phân bố theo trục Bắc – Nam, còn gọi là “Trục chính tâm”, “Trục ngự đạo”, gồm có: Kỳ Đài, Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn, tường bao và kiến trúc cổng hành cung thời Nguyễn, di tích nhà và hầm D67, các công trình kiến trúc Pháp…

            Kinh thành Thăng Long từ thời Lý được xây dựng theo cấu trúc ba vòng thành, gọi là “tam trùng thành quách”: vòng thành ngoài là La thành hay Đại La thành, vòng thành giữa là Hoàng thành (thời Lý – Trần – Lê gọi là Thăng Long thành, thời Lê còn gọi là Hoàng thành) và vòng thành trong cùng gọi là Cấm thành (hay Cung thành). Cấm thành từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18 hầu như không thay đổi và còn bảo tồn cho đến nay hai vật chuẩn rất quan trọng: Thứ nhất là nền điện Kính Thiên xây dựng thời Lê sơ (1428) trên nền điện Càn Nguyên (sau đổi tên là điện Thiên An) thời Lý, Trần. Đó vốn là vị trí của núi Nùng (Long Đỗ – Rốn Rồng), được coi là tâm điểm của Cấm thành và Hoàng thành, nơi chung đúc khí thiêng của non sông đất nước theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền, mà di tích hiện còn là nền điện với bậc thềm và lan can đá chạm rồng thế kỷ 15. Thứ hai là cửa Đoan Môn, cửa Nam của Cấm thành thời Lý – Trần – Lê. Trên vị trí này hiện nay vẫn còn di tích cửa Đoan Môn thời Lê.

            Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), trong sách Đại Việt địa dư chí toàn biên có đoạn mô tả khá rõ ràng về Hoàng thành Thăng Long thời Lê: “Ở giữa là Cung thành, trong cửa Cung thành là Đoan Môn. Trong Đoan Môn là điện Thị Triều, trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu Kính Thiên là điện Chí Kính, bên tả là điện Vạn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên tả là Đông Trường An, ở giữa có Ngọc Giản. Trong Hoàng thành và ngoài Cung thành ở phía Đông là Thái Miếu, sau là Đông Cung”.

            Để giúp thế hệ sau và bạn bè quốc tế hiểu thêm về lịch sử Việt Nam cùng Hoàng thành Thăng Long, đêm tour “Giải mã Hoàng thành Thăng Long” đã được tổ chức thành công. Đây không chỉ là một sự kiện quảng bá văn hóa, du lịch mà nó còn là cách để thế hệ sau tôn vinh, tự hào về lịch sử, văn hóa của dân tộc mình. 

            Trải qua thăng trầm của lịch sử, chiến tranh, thuộc địa… Kinh thành Thăng Long vẫn nằm đó như một minh chứng trường tồn của lịch sử, về một thời huy hoàng đã qua đi của dân tộc. Chúng ta – thế hệ con cháu phải biết bảo tồn, gìn giữ và phát huy vẻ đẹp của Hoàng thành đến thế hệ tương lai và bạn bè quốc tế. 

Dưới đây là một số nguồn tham khảo để em có thể hoàn thiện bản báo cáo của mình: 

1. TTXVN (2010), Thăng Long thời Lê, thời Mạc-Lê, Trung Hưng (1428-1788), Ban Tuyên giáo Trung ương. 

2. Sở Du lịch Hà Nội (2020), Khu di tích Hoàng thành Thăng Long, Cổng thông tin điện tử Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội.

3. Quang Dương (2018), Hoàng thành Thăng Long – Dấu ấn văn hóa, kiến trúc độc đáo, Báo Xây dựng. 

3. Nói và nghe

Chọn thực hiện theo nhóm học tập một trong các nội dung sau:

Nội dung 1. Giới thiệu một tác phẩm truyện nổi tiếng đang được giới trẻ quan tâm tìm đọc.

Nội dung 2. Có những tác phẩm nghệ thuật nào từng để lại ấn tượng sâu sắc với bạn? Hãy nói về tác phẩm ấy.

Nội dung 3. Thảo luận về cách thực hành “lối sống xanh”.

Bài nói tham khảo

Nội dung 1:

            Nam Cao được biết đến là một cây bút tài hoa trên diễn đàn văn học Việt Nam, những tác phẩm ra đời mang màu sắc hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông mang cái nhìn về thời đại và cuộc sống hoàn toàn mới, cũng như hình ảnh trong các tác phẩm cũng đa dạng và phong phú, mang những mảng tính cách mà sự pha trộn sáng tối lại như được tương phản rõ rệt. Chí Phèo là một tác phẩm điển hình khi nhắc tới Nam Cao. Đây là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao, câu chuyện cũng gợi một những ý nghĩa nhân văn sâu sắc

            Tác phẩm mở đầu thật đặc sắc và đầy ấn tượng với tiếng vừa đi vừa chửi của Chí Phèo, và xung quanh hắn chỉ có mấy con chó đứng chầu chực sủa. Ngoài mấy con chó, không có ai đáp lời hắn. Mở đầu truyện ngắn rất đỗi tài tình và tự nhiên, giống như chúng ta đang chứng kiến khung cảnh ấy vậy. Những âm thanh hay cụ thể là những tiếng chửi của Chí Phèo lại làm cho mọi thứ trở nên sống động, mọi hình ảnh như mở ra trước mắt. Có thể nói hình ảnh Chí say rượu, vừa đi vừa chửi,chửi những gì mà hắn thấy. Có lẽ, dường như mọi người ở cái làng Vũ Đại đã quen với hình ảnh này của nó, cho nên cứ khi nào hắn chửi mọi người cũng chẳng để ý và nghĩ rằng:” chắc hắn trừ mình ra”. Tới đây ắt hẳn mọi người lại ngạc nhiên tại sao hắn lại có hành động như vậy, theo thông thường người ta chửi bới khi uất ức một chuyện gì hay quá áp lực. Quả là như vậy, hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Vì ghen tuông với sự trẻ trung lực lưỡng của hắn và vì bà Ba để ý tới hắn, nên Bá Kiến tìm cách bỏ tù hắn, để hắn không thể xuất hiện nữa. Như có một sự vô cớ, Chí Phèo vốn dĩ là một người lương thiện, nghèo đói nên đi ở, nhưng trong xã hội đó, ai có tiền có quyền người đó được làm mọi thứ, và cứ thế từ một con người lương thiện, Chí dần bị đẩy vào con đường tha hóa và lưu manh hóa.

            Sau khi được thả tù, bộ dạng Chí thay đỏi hẳn, với cái đầu cạo trọc và hàm răng trắng hếu, trên mặt hiện lên vết sẹo dài. Trông hắn chẳng khác gì một con quỷ, quỷ đội lốt trong hình hài của một con người. Và người hắn tìm đến đầu tiên không ai khác chính là Bá Kiến.Khi biết Chí đứng trước nhà mình vừa say vừa ăn vạ, Lí Cường ra mắng hắn, nhưng ngay sau đó, Chí Phèo đã rạch mặt, những vết máu trên khuôn mặt đầy sẹo dọc ngang nằm trước cổng nhà Bá Kiến dưới nhiều con mặt dò xét của người dân nơi đây. Khác với Lí Cường, Bá Kiến là người khôn khéo,khi thấy hình ảnh đó,quay sang Lí Cường mắng sa sả như tỏ ra nhượng bộ, rồi đỡ Chí Phèo dậy. Hắn biết tên Chí Phèo luôn luôn ưa nhẹ, lại thích được mềm mỏng nên sau đó hắn đã mời Chí vào nhà và cho ăn uống hậu hĩnh. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa vì Chí cho rằng đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí đã hoàn thành công việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Bắt đầu từ lúc này Chí bõng nhiên trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh.

            Dường như cuộc sống và con người của Chí Phèo lúc này đây đã thực sự thay đổi khi một lần trong lúc uống say, hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị Nở được khắc họa là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích và Họ đã ăn nằm với nhau và thứ tình cảm đó đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Có lẽ hình ảnh bát cháo hành của Thị như liều thuốc tiên đánh thức con người lương thiện luôn giấu kín trong một bộ dạng quỷ dữ của hắn. Cái mùi cháo hành thơm kia như đã bốc lên và cử chỉ quan tâm của Thị đã khiến chí bùi ngùi và chợt nhận ra, anh muốn có một gia đình, với vợ dệt vải chồng đi làm, cứ thế cuộc sống êm đềm trôi qua. Nhưng, dường như niềm vui sướng chưa được bao lâu thì người bà cô đã khuyên Thị không nên ở với hắn, rồi Thị cũng là người duy nhất quay lưng lại với hắn thì cuối cùng cũng bỏ đi. Chiếc thang bắc cầu cho lòng lương thiện của Chí được sang bến bờ được sống như một người bình thường giờ đây hắn cũng không còn nữa. Chính vì thế, mà Chí Phèo đã mang dao tới nhà bá Kiến kết thúc đời bá Kiến và sau đó cũng tự sát, hắn không còn một lựa chọn nào khác.khi nghe được tin này, nhiều người tỏ ra hả hê, còn riêng Thị Nở lại nhìn xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch bỏ hoang không người qua lại.

            “Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, và tình huống khác nhau…tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể dễ nhận thấy và phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích-từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Dù là theo cách nào đi chăng nữa thì tất cả đều làm nổi bật nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện.

            Dường như hình ảnh làng Vũ Đại được ví như một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng ,hiện thực cuộc sống được khơi ra từ những tình huống truyện đặc sắc và những chi tiết nhỏ nhất nhưng khiến độc giả không thể bỏ qua. Truyện ngắn “Chí Phèo” mở đầu và kết thúc theo kết cấu vòng, khi mở đầu truyện với hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang thì kết thúc truyện cũng như vậy, đó là chi tiết khi biết chí phèo tự sát, Thị Nở bỗng đã nhìn ngay xuống bụng mình và lại nghĩ ngay tới hình ảnh cái lò gạch, không biết một cuộc sống sẽ bắt đầu như thế nào, kết thúc mở khiến cho độc giả có nhiều liên tưởng thú vị. Ngôn ngữ trong tác phẩm là một điều không thể bỏ qua, lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao dường như đã bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi. Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý ngay từ khi mới đặt tay lên trang giấy. Ông đã thật tài tình khi đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Thông qua đây, việc sử dụng này có ý nghĩa rất lớn đến việc đi sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Chính bởi nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động.

Nội dung 2:

            Kim Lân là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam, với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đã để lại những dấu ấn sâu sắc, có tầm ảnh hưởng lớn trong nền văn học hiện đại nước nhà thế kỷ XX. Trong số gia tài các tác phẩm ít ỏi của Kim Lân, Vợ Nhặt là một trong số những tác phẩm nổi bật và xuất sắc nhất khi nói về số phận người nông dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1944-1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Tuy nhiên Kim Lân không như những cây bút hiện thực cùng thời, đi sâu vào hiện thực tàn khốc của xã hội, mà trái lại tác phẩm của ông chú trọng nhiều vào các giá trị nhân văn, nhân đạo, khai thác và làm sáng rõ những vẻ đẹp của con người thông qua nghịch cảnh cuộc sống để mang đến ánh sáng, niềm tin hy vọng trong những tháng ngày tăm tối nhất.

            Nói về Vợ nhặt Kim Lân từng chia sẻ “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Thực vậy Vợ nhặt của Kim Lân là một câu chuyện với tình huống truyện đặc biệt, được xây dựng trên một cái nền cũng đặc biệt không kém khi tất cả khởi nguồn từ một mối hôn nhân kỳ lạ, không mai mối của anh Tràng. Anh tình cờ “nhặt” được vợ trong một lần đi đẩy xe bò thuê, cái sự kiện kỳ lạ đó diễn ra ngay giữa nạn đói kinh hoàng, người chết đói la liệt đầy đường, không khí ảm đạm, chết chóc tang thương bao trùm khắp làng quê. Con người nhếch nhác, thảm hại dìu dắt bồng bế nhau đi khắp các nẻo đường với những hình dung ám ảnh, kẻ sống thì “xanh xám như bóng ma”, người thoi thóp “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, còn “người chết như ngả rạ”, … Đêm xuống “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, cả làng xóm không nhà nào có ánh đèn, lạnh lẽo, xác xơ, khắp đường luôn có những “bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, âm thanh thiểu não của “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Cảnh tượng khủng khiếp ấy Kim Lân không chủ ý nhấn mạnh hay tập trung trong suốt chiều dài tác phẩm mà chỉ đôi lần lướt qua, để lại một vài câu chữ để, nói lên cái hiện thực tàn khốc đang đeo bám lấy từng số phận con người khốn khổ. 

            Trong cái viễn cảnh kinh hoàng ấy, khi từng con người đang dò dẫm tiến dần tới nghĩa địa, run rẩy bất lực trước lưỡi hái của tử thần thì lại có một đám cưới kỳ lạ diễn ra, một tổ ấm mới được dựng lên với tất cả niềm tin, hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn. Chủ nhân của gia đình ấy chính là Tràng, thị và bà cụ Tứ những con người với những phẩm chất tốt đẹp và sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sẵn sàng vượt lên trên thực tại khó khăn để hướng về một cuộc sống tươi sáng hơn.

            Nói về nhân vật Tràng, anh sinh ra vốn dĩ đã thiệt thòi, gia cảnh nghèo khó, diện mạo lại xấu xí, tính tình thì có phần ngờ nghệch, vô tư quá mức. Tràng là người dân ngụ cư, sống cảnh tha hương cầu thực, không ruộng đất, hàng ngày sống bằng nghề kéo xe bò thuê, trong nhà còn có thêm một mẹ già, cuộc sống vô cùng bấp bênh vất vả. Thêm nữa chính do cái xấu xí, nghèo đói mà Tràng mãi chẳng thể có được một tổ ấm riêng, cứ mãi lẻ loi đơn chiếc, vật lộn với cái đói, cái khổ. Là người dân ngụ cư nên Tràng không được cái quyền xuất hiện trong các buổi hội họp thôn xóm, sống cảnh bị xa lánh, coi thường, cuộc đời vừa thảm hại vừa đáng thương vô cùng. Tuy nhiên không vì thế mà Tràng nhụt chí, chán nản, trái lại anh vẫn luôn chăm chỉ lao động, kiếm sống, chấp nhận làm công việc kéo xe vất vả để kiếm tiền nuôi bản thân và chăm sóc người mẹ già yếu trong nhà. 

            Nạn đói ập đến, Tràng sống khó khăn hơn trước, nhưng cũng chính cái nạn đói ấy đã trở thành cơ duyên cho anh gặp thị, rồi nên duyên với nhau chỉ bằng 4 bát bánh đúc. Trong cuộc gặp gỡ tiền định ấy, trước hết ta thấy được một vẻ đẹp rất đáng quý của nhân vật Tràng. Anh là người nhân hậu, biết thấu hiểu và thông cảm cho những số phận cùng cảnh ngộ, mà tiêu biểu nhất là thị, một người đàn bà vì đói sắp chết mà bất chấp sĩ diện, liêm sỉ đòi ăn. Trước cái cảnh cong cớn, sưng sỉa trách móc của thị vì anh lỡ đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!” thì Tràng chẳng hề khó chịu, bực dọc, trái lại anh sẵn sàng bỏ tiền ra đãi thị an no một bữa tận 4 chén bánh đúc. Ngay trong lúc nạn đói hoành hành, người ta phải lo từng miếng ăn, thì cái tấm lòng hào phóng của Tràng quả thực đáng quý vô cùng. 

            Ấy rồi từ tấm lòng đồng cảm, thấu hiểu, Tràng đã dần chuyển sang sự xót xa, thương cảm cho người đàn bà tội nghiệp, không nơi nương tựa và cũng sắp bước đến đường cùng trước mắt. Lòng nhân hậu đã khiến anh muốn được che chở, chăm sóc, thành thử trong giây phút Tràng đã thốt ra lời “Này nói đùa chứ có về cùng tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Đó có thể xem là một lời cầu hôn, tuy không lãng mạn nhưng lại vô cùng quý giá và ý nghĩa, nhất là trong thời điểm người ta cần có nhau để nương tựa qua nạn đói, trở thành cọng rơm cứu mạng của thị. Ấy rồi, thị nhận lời chính thức trở thành vợ Tràng, một người vợ nhặt, không mối mai sính lễ. 

            Lúc này đây, Tràng dường như trưởng thành hơn, những nét đẹp trong tâm hồn anh lại càng được thể hiện rõ nét, Tràng biết săn sóc, để ý đến cảm nhận của người vợ mới cưới, anh dẫn thị vào chợ tỉnh ăn một bữa no nê, rồi lại dẫn thị đi mua một cái thúng nhỏ, với vài món đồ lặt vặt để thị về nhà chồng cho đỡ ngượng ngùng. Đó là một sự tinh tế, thấu hiểu và bao dung hiếm có mà không phải bất kỳ một ai, một người đàn ông nào cũng có thể có được. Để mừng cho tân hôn, Tràng không tiếc bỏ ra hai hào để mua dầu về thắp sáng trong nhà, cố gắng cho thị một ngày cưới tuy không đầy đủ nhưng cũng có được những phần tươi sáng, vui vẻ, tạm xua đi những cái tối tăm, mệt nhọc đang chờ phía trước. 

            Trên đường dẫn thị về nhà, tâm trạng của Tràng tràn đầy những cảm xúc phấn khởi và hạnh phúc “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Thậm chí anh vui sướng đến độ “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể nói rằng cái đám cưới kỳ lạ với thị là bước ngoặt lớn của đời Tràng, mở ra cho anh một cánh cửa mới, một con đường mới, đem đến một làn gió tươi sáng và tràn đầy hy vọng trong tâm hồn chàng trai trẻ, dù rằng tương lai phía trước còn nhiều chông gai. Đến khi đưa thị về nhà giới thiệu với mẹ, lòng Tràng không tránh khỏi những cảm xúc lo lắng, sốt ruột, anh thưa chuyện với mẹ bằng một thái độ nghiêm túc, cẩn trọng mong mẹ xuôi lòng. Điều đó cho thấy rằng Tràng đang rất trân trọng và mong chờ vào cuộc hôn nhân, một cuộc sống mới hứa hẹn sẽ cho Tràng cảm giác hạnh phúc, một mái ấm gia đình trọn vẹn, tràn ngập yêu thương, để anh cũng như bao người đàn ông khác được làm chồng làm cha, bước vào một cuộc đời mới lắm thách thức nhưng cũng nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc. 

            Sau đêm tân hôn, Tràng dường như thay đổi hẳn, trưởng thành, chững chạc và nhận thức được những trách nhiệm và vị trí của bản thân trong gia đình, anh vừa cảm thấy hạnh phúc vừa cảm thấy bản thân có trách nhiệm phải xây dựng gia đình êm ấm, mang lại hạnh phúc cho vợ con, nuôi sống gia đình. Điều ấy thể hiện rõ ràng trong suy nghĩ “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” đồng thời Tràng lập tức biến nó thành hành động khi “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”. Trong bữa cơm đón dâu mới, Tràng nghĩ về việc phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, cũng bộc lộ những suy nghĩ mới, lối đi mới trong tương lai của Tràng và của cả rất nhiều những người nông dân khác, nhằm giải thoát cho chính bản thân khỏi nạn đói kinh hoàng, khỏi sự áp bức của kẻ thù.

            Đối với nhân vật thị, sự xuất hiện của người phụ nữ này dường như lúc đầu đã không gây được mấy thiện cảm, bởi cái sự cong cớn, sưng sỉa, bất chấp liêm sỉ vì miếng ăn. Thế nhưng đi sâu vào thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị trái lại người ta lại thấy thương xót nhiều hơn, thị đã đi đến bước đường cùng, đang bước dần đến nghĩa địa, ngay cái lúc ấy người ta chỉ mong được sống, khao khát sống đến mãnh liệt, bằng mọi giá phải sống. Chính lẽ đó khi bắt được cơ hội đẩy xe bò để được ăn, thị đã không chần chừ bất chấp cái thân thể tàn tạ, còn chút hơi sức. Nhưng Tràng thế mà lại quên đi mất lời đùa của mình, thành thử thị tưởng mình bị lừa, thị buồn, thị xót cái công sức và ấm ức vì cuộc đời khốn khổ sắp đến hồi kết. Những cái lúc ấy sao người ta còn có thể bình tĩnh, mà không sưng sỉa cong cớn lên cho được, ấy rồi nhờ vậy mà thị được ăn, được sống, thậm chí có cả một người chồng, một mối nhân duyên có phần kỳ lạ giữa cái nạn đói khủng khiếp. 

            Thị trở thành người vợ theo không, không mối mai, không cỗ bàn, không đồ sính lễ, tủi nhục, thế nhưng trong cái hoàn cảnh ấy thị dù tủi hổ, nhưng cái thị cần nhất vẫn là được sống, thị cần một chỗ dựa, một mái ấm để nương vào, để thoát khỏi cái cảnh bèo dạt của mình. Khi về nhà chồng, thị bỗng thay đổi thành một con người khác, tận mắt chứng kiến cái “nhà” thực chất chỉ là một căn lều rách nát của Tràng, mắt thị tối lại, thế nhưng người đàn bà ấy chẳng hề tỏ ra sự thất vọng, ảo não trong lòng, mà trái lại vẫn tiếp tục cùng Tràng vào nhà đợi mẹ chồng về. 

            Thị trở nên khép nép, lễ phép, không còn cái vẻ đanh đá, chỏng lỏn khi mới gặp Tràng, trước sự dặn dò, thương xót của bà cụ Tứ, thị dịu dàng, yên lặng lắng nghe, và tiếp thu, sẵn sàng cùng Tràng xây dựng một mái ấm với những niềm tin mãnh liệt về một tương lai tươi sáng. Sau đêm tân hôn cảnh thị dậy sớm chuẩn bị cơm nước, quét dọn nhà cửa, vườn tược, gánh nước, hong khô đồ… đã mang đến hình ảnh đẹp của một người phụ nữ biết vun vén, tần tảo, hy sinh, đang cố gắng từng ngày để xây dựng cuộc sống mới ấm êm, hoàn toàn rũ bỏ cái cảnh lay lắt, lang thang đầu đường xó chợ.

            Một nhân vật ấn tượng và đáng chú ý nữa trong truyện chính là bà cụ Tứ, nhân vật đại diện tiêu biểu nhất cho một thế hệ người phụ nữ Việt Nam thế kỷ trước. Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, có cuộc đời nhiều đắng cay vất vả, một tay vất vả nuôi anh Tràng khôn lớn, cho đến lúc già cả lại phải chịu cảnh trở thành dân ngụ cư, lang bạt nơi xứ người, chịu cảnh đói kém hành hạ. Không chỉ chịu những nỗi khổ về thể xác, bà cụ Tứ còn luôn sống trong cảnh dằn vặt với nỗi khổ tâm tự trách vì bản thân nghèo quá không thể lo nổi cho người con trai một tấm vợ tử tế, phải nhìn cảnh con mình khổ sở, đơn độc mưu sinh. 

            Ở nhân vật này ta thấy hiện lên rõ nét nhất ấy là tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Khi thấy anh Tràng dẫn một người đàn bà lạ mặt về nhà, bà không vội vã dò xét, tra hỏi mà trái lại bà để cho con trai mình tự lên tiếng, sau khi hiểu ra biết bao nhiêu là cớ sự, bà chẳng trách con tự tiện quyết định chuyện hôn nhân mà cái bà cụ lo lắng nhiều nhất lại là “liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không”. Lòng người mẹ vẫn muôn đời suy nghĩ cho con, thấy anh Tràng lấy vợ trong cảnh đói kém, làng xóm tràn ngập một màu u ám, tiêu điều, lòng cụ Tứ lại càng thêm nhiều đau xót. Xót con vì nghèo khó mà chẳng có được một đám cưới tử tế, xót con vì phải cưới vợ trong cái cảnh sống hôm nay mà chẳng biết được ngày mai, cũng lại xót xa cho chính cuộc đời làm mẹ mà chẳng thể làm gì để con mình được sung sướng đầy đủ. Thế rồi sau tất cả những bộn bề suy nghĩ, lo toan, lòng cụ Tứ dần lắng lại, cụ sốc lại tinh thần, giấu nhẹm đi những lo lắng trong lòng để tác thành cho mối duyên của các con. Bà cũng hết lòng an ủi, động viên Tràng và thị với những lời nói đầy hy vọng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”, tạo lập cho họ động lực, lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trong nay mai, chỉ cần họ cố gắng hết sức, cùng nhau vượt qua khó khăn, vượt qua được nạn đói kinh hoàng này. 

            Bên cạnh tấm lòng thương yêu con sâu sắc, cụ Tứ còn hiện lên với tấm lòng nhân hậu, bao dung biết thương cảm cho những số kiếp người bất hạnh, mà tiêu biểu nhất là thị, người con dâu mới cưới. Khi nhìn đến người đàn bà với bộ dạng tả tơi, thảm hại, đang rụt rè đứng đợi sự chấp nhận của bà, lòng bà bỗng dấy lên nhiều những nỗi niềm thương cảm, nghĩ rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà vội giục thị ngồi xuống cho đỡ mỏi chân, rồi tỉ tê, tâm sự chuyện hoàn cảnh gia đình, về chuyện không thể làm dăm ba mâm cỗ cưới khiến thị thiệt thòi, mong rằng thị có thể hiểu và thông cảm cho những nỗi khó khăn của mẹ con bà, mà thương yêu lấy Tràng. Đối với bà chỉ cần vợ chồng Tràng sống với nhau hạnh phúc “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, rồi nhìn lại cái cảnh đói kém mà lòng nặng trĩu những nỗi lo lắng, thương cảm về cuộc đời của Tràng và thị. 

            Bà cụ Tứ còn hiện lên với vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, trở thành người truyền động lực, cảm hứng cho con trai và con dâu, giúp họ có thêm sức mạnh, niềm tin vào một cuộc đời khấm khá và bớt khó khăn hơn trong tương lai. Điều đó được bộc lộ rất rõ thông qua cảnh bà động viên vợ chồng Tràng lúc mới về, và cả trong cái cảnh bữa cơm sáng bà cụ liên tục kể những câu chuyện vui, kể chuyện là ăn, nuôi gà,… Dù rằng những dự định, những mong ước ấy có vẻ khá xa xôi và khó khăn để thực hiện, thế nhưng nó vẫn đem đến cho câu chuyện những tia sáng ấm áp, xua tan bớt cái sự thảm hại, u ám, tiêu điều của làng quê trong nạn đói kinh hoàng, cũng mở ra cho các nhân vật những con đường mới mẻ, đầy hy vọng.

            Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc khi viết về số phận của người nông dân giai đoạn trước cách mạng, đặc biệt là trong nạn đói kinh hoàng. Đối với tác phẩm này, có thể tóm lược bằng mấy câu “Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy”. Cả Tràng, thị và bà cụ Tứ đều là những nạn nhân khốn cùng của nạn đói, cũng đứng trước những ám ảnh về cái chết đang tới gần, thế nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn cố sống từng ngày, họ vẫn xây dựng gia đình, vẫn cùng nhau cố gắng, suy nghĩ về chuyện tương lai, và tin tưởng rằng mình sẽ vượt qua được cái đói. Đó chính là ý nghĩa nhân văn sau cùng mà Kim Lân muốn truyền tải, dù trong hoàn cảnh khốn cùng nào thì con người ta vẫn luôn lóe lên những tia sáng của phẩm hạnh tốt đẹp, chúng không bị chôn vùi bởi thực tại mà càng vì thực tại mà trở nên rõ nét hơn.

Nội dung 3:

            Tuổi trẻ là tuổi đầy hăng say và nhiệt huyết, là lứa tuổi căng tràn những ước mơ và hoài bão cao đẹp. Nhà văn Tô Hoài cũng từng nói rằng: “Hỡi ơi! Còn chi buồn bằng, tuổi thì trẻ, gân thì cứng, máu thì cuộn cuồn với trái tim và tấm lòng tha thiết mà lại sống theo khuôn khổ bằng phẳng”. Tuy nhiên hiện nay cũng có một số bạn trẻ chọn cho mình một lối sống vượt xa khỏi khuôn khổ. Chúng ta cùng đặt chân để tìm hiểu về vấn đề nan giải này.

            Khi chúng ta được sinh ra, thì đã có sẵn những qui luật và khuôn khổ riêng của cuộc sống. Dần dần khôn lớn thì ta lại lần theo dấu vết của khuôn khổ ấy để tiếp tục sống. Vậy! Sống theo khuôn khổ là gì? Nhằm hiểu theo một cách ngắn gọn là sống theo những lề lối khuôn phép đã có sẵn để có được một cuộc sống êm đềm, nhưng lại rất buồn tẻ và sẽ không có được những trải nghiệm hay, thú vị của cuộc đời. Cũng như Tô Hoài đã nói ở trên “gân thì cứng, máu thì cuồn cuộn với trái tim mà lại sống theo lối sống bằng phẳng” hẳn ông cũng muốn nói lên chính tâm tư và nguyện vọng của chính mình. Tuổi trẻ – tuổi căng mọng những ước mơ, đầy ắp tương lai và khát vọng, đó chính là khoảng thời gian mà chúng ta cần phải sống sôi nổi, mạnh mẽ gan dạ trải nghiệm từng mảng màu chông gai trong cuộc sống. Vậy mà lại sống vùi mình trong khuôn khổ chật hẹp không thể hiện được những khát khao cháy bỏng của mình. Thật đáng tiếc có phải không, bởi lẽ khi tuổi trẻ đã trôi qua thì chúng ta sẽ không bao giờ tìm lại được những cảm xúc, sự hăng say sống lúc ấy.

            Thế nhưng! Vẫn có một kiểu sống khác hẳn khuôn khổ lề luật. Một cách sống mà chỉ có chính bản thân mình mới có thể chấp nhận được. Ăn mặc lố lăng, phát ngôn làm tổn thương người khác… lối sống ấy một xã hội cho dù có phát triển đến cách mấy cũng không thể nào chấp nhận được. Nếu tuổi trẻ mà cứ sống mãi trong cái vỏ bọc đã được định sẵn thì rất nhàm chán, nhưng nếu ta phá vỡ nó đi mà sống theo một cách mà giới trẻ hiện nay đang chọn thì cũng chẳng đáng hay ho gì. Bằng chứng cụ thể và gần đây nhất là hình ảnh các cô chân dài với những bộ áo quần sexy đi qua, lướt lại trong chuyến bay rước đội tuyển U23 về nước. Sự chào đón nồng hậu ấy nhưng lại gây ra sự mất thiện cảm rất lớn, đó cũng là một lối sống khác khuôn khổ, nhưng có lẽ nó hơi quá đà và hơi thô bạo.

            Cuộc sống này, nếu ai chỉ sống theo một bộ khuôn định sẵn thì chẳng có gì thú vị, nổi trội cả, toàn là những con người giống nhau, hành động giống nhau. Đối với tuổi trẻ nó lại càng trở nên vô vị. Xã hội cần có những con người sáng tạo. Thế giới cần những con người biết đạp phải những lề luật lạc hậu, cũ kĩ để mở ra một thế giới mới hoàn thiện hơn và phát triển hơn. Các tài năng trẻ của Việt Nam cũng đã khẳng định được tên tuổi và bản lĩnh của mình trong các cuộc thi sáng tạo khoa học, kĩ thuật, học tập và gần đây nhất là lĩnh vực thể thao với cuộc đối đầu đầy gây go với một đối thủ rất mạnh. Nhưng U23 Việt Nam luôn thể hiện được bản lĩnh của mình rất tốt.

            Cuộc sống là một trang lịch sử rất dài, chúng ta phải luôn tìm tòi, sáng tạo ra cái mới để hoàn thiện bản thân mình. Đồng thời xã hội cũng không chấp nhận được những lối sống khác khuôn khổ một cách lố lăng như thế… Nói tóm lại chúng ta cần phải lựa chọn con đường thật đúng đắn, phải suy nghĩ thật chỉnh chu khi làm bất cứ một việc nào đó, nếu không thật sự chín chắn thì từ suy nghĩ ấy sẽ làm hư hại đi nhân cách của bản thân mình một cách trầm trọng.

            Con người là những sinh vật bé nhỏ và có thể xem là yếu đuối nhất. Một cơn sóng to, một cơn bão lớn thò chúng ta sẽ gục ngã ngay tức khắc. Nhưng hãy chọn cho mình một con đường cũng như một lối sống cho phù hợp với bản thân và với cả cái nhìn của gia đình và xã hội. Hãy cứ mạnh dạn sống khác khuôn khổ cũ xưa nhưng hãy ghi tâm một điều rằng” chúng ta không chỉ tồn tại một mình trong thế giới này, nên hãy sống thế nào mà khi người khác nhìn vào cũng đều tôn trọng, chứ đừng để khi người đời nhìn vào mình rồi lại bẽn lẽn mỉm cười rồi bỏ đi đó chính là một sự thất bại rất lớn.

Xem thêm các bài soạn văn lớp 11 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên, xã hội

==== ~~~~~~ ====



Link Hoc va de thi 2021

Chuyển đến thanh công cụ